Hầu như mọi người đều sẽ nghĩ ngay đến một trạng thái hay phương pháp tu hành của nhà Phật khi ai đó nhắc đến thiền. Tuy nhiên để cắt nghĩa đúng về “thiền là gì?” thì không phải ai cũng có thể lý giải được. Bài viết hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu câu hỏi trên cũng như nguồn gốc của loại hình này.
NỘI DUNG BÀI VIẾT
I. Thiền là gì?
Thiền trong tiếng Nhật được gọi là Zen, phiên âm từ chữ “Ch’an” trong tiếng Trung Quốc. Được nhắc tới trong bộ kinh Áo Nghĩa Thư (Upanishad) với thuật ngữ “Dhyna” từ thời thượng cổ ở Ấn Độ. Có thể nói “cái nôi” sinh ra thiền chính là Ấn Độ.
Từ lâu, người Ấn Độ luôn tin rằng nếu muốn hiểu tường tận về bất kỳ việc gì con người ta cần phải hòa mình vào chính sự việc, sự vật đó. Để thực hiện được điều này bạn cần tập trung suy nghĩ, tập trung tư tưởng của bản thân. Sao cho đảm bảo không bị tác động bởi bất kỳ ngoại cảnh nào. Khi đạt được trạng thái đó cũng đồng nghĩa với việc bạn đã chạm đến ngưỡng của thiền. Đem lại nhiều tác dụng với tinh thần của con người, thiền được không ít tông phái triết học Ấn Độ ứng dụng từ xa xưa.

1. Quá trình hình thành trên các nước
Sau khi Phật giáo ra đời, vào những năm 520 Bồ đề Đạt ma đã đem phương thức này truyền sang Trung Quốc. Tại Trung Quốc, thiền không những được phát triển về lý luận mà còn được định hình qua các phương pháp thực hành chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Trung Hoa. Sau khi được du nhập vào Nhật Bản, thiền lại được hòa trộn với văn hóa và nghệ thuật của xứ sở mặt trời mọc. Đến những năm đầu của thế kỷ XX, thiền bắt đầu du nhập vào phương Tây. Tại đây nó được xem là một phương pháp giáo dục đạo đức, tâm linh.
2. Định nghĩa trên nhiều phương diện khác
Có thể thấy, trong quá trình lan tỏa tới các quốc gia khác nhau; du nhập các nền văn hóa khác nhau thì nó đã được phát triển, bổ sung thêm về lý luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, dù trải qua bao nhiêu lần biến thiên, tái nhập bao nhiêu khái niệm thì định nghĩa về nó vẫn không thay đổi. Quan trọng hơn hết vẫn là cốt lõi, tinh thần của thiện luôn được giữ gìn. Dưới đây là một số định nghĩa về nó trên các phương diện khác nhau:
- Thiền trong Yoga còn được gọi là dhyana. Đây là trạng thái tập trung đặc biệt cao độ của tâm trí, không bị chi phối bởi bất kỳ điều gì. Ở trạng thái này, người thực hiện hoàn toàn tập trung, ý thức về những suy nghĩ cá nhân và ý thức về vũ trụ. Nó được xem là hình thức thực hành đa dạng nhất trong bộ môn này
- Ngoài ra, cũng có nhiều người nhắc về thiền đơn giản là một trong những phương pháp rèn luyện tâm trí. Giúp bạn tập trung vào những vấn đề hiện tại. Giúp mọi việc của bạn được trọn vẹn hơn. Hướng tới sự thuần khiết và bình an cho người thực hành.
Thiền trên nhiều phương diện khác nhau
II. Thiền trong Phật giáo
Thiền trong Phật giáo không chỉ giúp tâm trí của người ta tĩnh lặng mà còn mang ý nghĩa hướng đến sự thanh lọc. Giúp loại bỏ phiền não trong suy nghĩ, tâm trí; loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực xuất phát từ tam độc: tham – sân – si. Ngoài ra, trong phật giáo nó còn được dùng để nuôi dưỡng, phát triển những phẩm hạnh tốt như sự tự tin, trí tuệ, lòng từ bi. Đem đến trạng thái tinh thần tích cực, cùng những hiểu biết mới về cuộc sống. Có hai phương thức chính trong thực hành là thiền định và thiền quán
1. Thiền định
Là cách để tu luyện tâm tính. Mục đích của việc này là hướng đến sự bình an và tĩnh lặng trong tâm hồn. Nó được thực hiện thông qua việc tĩnh tâm, tập trung vào hơi thở của mình; nhận thức về bản chất của các luồng suy nghĩ, hành động của bản thân; hay diễn biến của mọi việc xung quanh mình. Người thực hành thiền định sẽ đạt trạng thái vui vẻ, hạnh phúc trong hiện tại; thanh lọc cơ thể, thanh lọc tâm trí. Đồng thời giải bày những phiền não.

2. Thiền quán
Đây là cách thực hành với mục đích hướng về sự phát triển của trí tuệ và sự thông suốt về tâm linh. Bản thân thiền quán cũng có thể được hiểu là “một cái nhìn sâu sắc vào bên trong của sự việc”. Để thực hành loại hình này, cần phải để tâm tĩnh lặng. Quan sát, thấu hiểu sự vật, sự việc đang diễn ra với sự chú tâm sâu sắc nhất. Thiền quán là mối liên hệ mật thiết của tâm và thân. Nó là hành trình khám phá bản thân mình của mỗi người để thật sự hiểu suy nghĩ của mình đến tận gốc rễ.
Thực hành điều này mục đích cuối cùng là để chạm tới sự hạnh phúc từ tâm trí. Sự cân bằng về trí tuệ cũng như lòng từ bi và tình thương. Không để bạn thân phụ thuộc hoặc bị chi phối bởi các tác nhân bên ngoài
3. Kết luận
Dù mang những chức năng khác nhau phụ thuộc từng cách thực hành. Xong thiền định và thiền quán vẫn là hai phương pháp có mối liên hệ phụ thuộc, hỗ trợ cho nhau trong suốt quá trình người thực hành tu dưỡng tâm linh, trí tuệ.
Xem thêm: Hoa ưu đàm là gì? Ý nghĩa hoa ưu đàm trong Phật giáo